Định luật Green

Từ testwiki
Phiên bản vào lúc 18:06, ngày 1 tháng 1 năm 2023 của imported>NhacNy2412Bot (sửa tham số CS1)
(khác) ← Phiên bản cũ | Phiên bản mới nhất (khác) | Phiên bản mới → (khác)
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm

Bản mẫu:About-distinguish

Sự truyền của sóng dài cho thấy sự thay đổi của bước sóngchiều cao sóng khi độ sâu mực nước giảm..

Trong động lực học lưu chất, định luật Green mô tả tiến triển của những sóng trọng trường có bề mặt sóng không vỡ truyền trong nước nông có độ sâu và bề ngang thay đổi dần dần. Định luật được đặt theo tên George Green. Ở dạng đơn giản nhất, trong trường hợp mặt sóngđường bình độ sâu song song nhau (và với bờ biển), nó phát biểu như sau:

H1h14=H2h24 Bản mẫu:Pad hoặc Bản mẫu:Pad (H1)4h1=(H2)4h2,

với H1H2chiều cao sóng tại hai vị trí khác nhau – 1 và 2 tương ứng với nơi sóng truyền, và h1h2 là độ sâu trung bình tại cùng vị trí.

Định luật Green thường dùng trong kỹ thuật công trình biển để lập mô hình các sóng nước nông dài trên bờ biển, với "dài" có nghĩa là bước sóng khoảng hơn hai mươi lần độ sâu trung bình của nước.[1] Sóng thần vào bờ (thay đổi độ cao của chúng) tuân theo định luật này, khi chúng lan truyền – bị tác động bởi khúc xạnhiễu xạ – qua đại dương và tràn lên thềm lục địa. Khi ở rất gần (và đã tràn lên) bờ biển, những ảnh hưởng phi tuyến trở thành yếu tố có tính quyết định và định luật Green không còn được áp dụng nữa.[2][3]

Mô tả

Hội tụ của các tia sóng (giảm chiều rộng b) tại Mavericks, California, tạo ra những con sóng lướt cao. Các đường màu đỏ là những tia sóng; đường màu xanh là những mặt sóng. Khoảng cách giữa các tia sóng lân cận thay đổi về hướng bờ biển bởi vì khúc xạ gây ra bởi độ sâu (sự thay đổi độ sâu). Khoảng cách giữa các mặt sóng giảm dần theo hướng bờ biển bởi vì hiệu ứng nước nông (đang giảm độ sâu h).

Theo định luật, dựa trên những phương trình nước nông tuyến tính, các biến đổi không gian của chiều cao sóng H (gấp đôi biên độ a đối với sóng sin, bằng biên độ đối với sóng đơn) đối với sóng đang di chuyển trong nước với độ sâu trung bình hchiều rộng b (trong trường hợp kênh lộ thiên) thỏa mãn:[4][5]

Hbh4=constant,

trong đó h4căn bậc 4 của h. Do đó, khi tính cho hai mặt cắt ngang của một kênh lộ thiên, đặt tên là 1 và 2, thì chiều cao sóng trong mặt cắt 2 là:

H2=b1b2h1h24H1,

với các chỉ số 1 và 2 dùng để chỉ cho các giá trị ở mặt cắt tương ứng. Vì thế, khi độ sâu giảm xuống 16 lần, thì sóng cao lên gấp đôi. Và chiều cao sóng tăng gấp đôi khi bề rộng kênh giảm dần 4 lần. Đối với phương truyền sóng vuông góc với đường bờ biển và các đường bình độ sâu song song với đường bờ biển, thì lấy b là một hằng số, có thể 1 mét hoặc yard.

Đối với những sóng dài khúc xạ trong đại dương hoặc gần bờ, bề rộng b có thể được hiểu là khoảng cách giữa các tia sóng. Các tia sóng (và những thay đổi khoảng cách giữa chúng) thỏa mãn từ quy tắc xấp xỉ trong quang hình học cho đến phương truyền sóng tuyến tính.[6] Trong trường hợp các đường bình độ sâu song song và thẳng thì đơn giản hóa bằng việc sử dụng định luật Snell.[7]

Green công bố những kết quả của ông vào năm 1838,[8] dựa trên một phương pháp – phương pháp Liouville–Green – được phát triển thành những gì mà bây giờ gọi là xấp xỉ WKB. Định luật Green cũng đúng với sự bất biến của dòng năng lượng trung bình của sóng ngang đối với những sóng dài:[4][5]

bgh18ρgH2=constant,

trong đó ghvận tốc nhóm (bằng vận tốc pha trong sóng nước nông), 18ρgH2=12ρga2mật độ năng lượng trung bình của sóng được tính theo độ sâu và theo từng đơn vị diện tích ngang, ggia tốc trọng trườngρtỷ trọng nước.

Bước sóng và chu kỳ

Hơn nữa, từ phân tích của Green, bước sóng λ ngắn dần khi vào vùng nước nông, với:[4][8]

λgh=constant

dọc theo một tia sóng. Tần số của sóng nước nông không thay đổi, theo lý thuyết tuyến tính Green.

Chú thích

Bản mẫu:Tham khảo

Chú giải

Green

Bản mẫu:Refbegin

Bản mẫu:Refend

Khác

Bản mẫu:Refbegin

Bản mẫu:Refend

Bản mẫu:Physical oceanography