Phương pháp nhân tử Lagrange

Từ testwiki
Phiên bản vào lúc 23:30, ngày 29 tháng 11 năm 2024 của imported>InternetArchiveBot (Đã cứu 1 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.9.5)
(khác) ← Phiên bản cũ | Phiên bản mới nhất (khác) | Phiên bản mới → (khác)
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Hình 1: Tìm Bản mẫu:MvarBản mẫu:Mvar để có Bản mẫu:Math lớn nhất dưới điều kiện (vẽ bởi màu đỏ) Bản mẫu:Math.
Hình 2: Đường đồng mức tương ứng của Hình 1. Đường đỏ thể hiện giới hạn Bản mẫu:Math. Các đường xanh là những đường đồng mức Bản mẫu:Math. Tại điểm mà đường đỏ tiếp xúc tiếp tuyến với đường đồng mức màu xanh là nghiệm phải tìm. Vì Bản mẫu:Math, nghiệm là giá trị cực đại địa phương của Bản mẫu:Math.

Trong ngành tối ưu hóa, phương pháp nhân tử Lagrange (đặt theo tên của nhà toán học Joseph Louis Lagrange)[1] là một phương pháp để tìm cực tiểu hoặc cực đại địa phương của một hàm số chịu các điều kiện giới hạn.

Ví dụ (xem Hình 1), xét bài toán tối ưu hóa

tìm cực đại của hàm Bản mẫu:Math
chịu điều kiện giới hạn Bản mẫu:Math.

Chúng ta cần Bản mẫu:MvarBản mẫu:Mvar đều phải thỏa mãn là chúng liên tục tại đạo hàm riêng bậc nhất của chúng. Đặt một biến mới (Bản mẫu:Mvar) gọi là nhân tử Lagrange và nghiên cứu hàm Lagrange (hay Lagrangian) định nghĩa bằng

Λ(x,y,λ)=f(x,y)+λg(x,y),

với số hạng Bản mẫu:Mvar có thể là cộng hoặc trừ. Nếu Bản mẫu:Math là giá trị cực đại của Bản mẫu:Math cho bài toán giới hạn ban đầu, thì tồn tại Bản mẫu:Math sao cho Bản mẫu:Math là một điểm dừng của hàm Lagrange (điểm dừng là những điểm mà đạo hàm riêng của nó theo Bản mẫu:Mvar bằng 0). Tuy vậy, không phải mọi điểm dừng đều cho tương ứng với một nghiệm của bài toán ban đầu. Do đó, phương pháp nhân tử Lagrange mang lại điều kiện cần cho mục đích tối ưu hóa trong các bài toán giới hạn.[2][3][4][5][6] Điều kiện đủ cho giá trị cực đại và cực tiểu cũng phải thỏa mãn.

Tham khảo

Bản mẫu:Tham khảo

Liên kết ngoài

Bản mẫu:Wikibooks Exposition

For additional text and interactive applets

Bản mẫu:Sơ khai toán học