Định lý Friedlander–Iwaniec

Từ testwiki
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
John Friedlander
Henryk Iwaniec

Trong lý thuyết số giải tích, định lý Friedlander–Iwaniec phát biểu rằng có vô số số nguyên tố dưới dạng a2+b4. Các số nguyên tố đầu tiên là

2, 5, 17, 37, 41, 97, 101, 137, 181, 197, 241, 257, 277, 281, 337, 401, 457, 577, 617, 641, 661, 677, 757, 769, 821, 857, 881, 977, ... Bản mẫu:OEIS.

Độ khó của phát biểu nằm trong bản chất thưa thớt của dãy này: số các số nguyên có dạng a2+b4 và nhỏ hơn X nằm vào khoảng X3/4.

Lịch sử

Định lý được chứng minh vào năm 1997 bởi John FriedlanderHenryk Iwaniec.[1] Trong 2001, Iwaniec nhận giải thưởng Ostrowski cho cống hiến của ông cho công trình.[2]

Cải thiện

Định lý này được cải thiện bởi D.R. Heath-BrownXiannan Li trong năm 2017.[3] Cụ thể, họ chứng minh rằng đa thức a2+b4 biểu diễn vô số số nguyên tố khi biến b cũng là số nguyên tố. Hơn nữa, nếu f(n) đếm số số nguyên tố nhỏ hơn n và có dạng a2+b4, thì

f(n)vx3/4logx

trong đó

v=2πΓ(5/4)Γ(7/4)p1mod4p2p1p3mod4pp1.

Trường hợp đặc biệt

Khi Bản mẫu:Math, các số nguyên tố Friedlander–Iwaniec có dạng a2+1, tạo thành tập

2, 5, 17, 37, 101, 197, 257, 401, 577, 677, 1297, 1601, 2917, 3137, 4357, 5477, 7057, 8101, 8837, 12101, 13457, 14401, 15377, ... Bản mẫu:OEIS.

Hiện các nhà toán học đang đặt giả thuyết (một trong các bài toán của Landau) rằng tập này có vô hạn số phần tử. Tuy nhiên giả thuyết này không thể suy ra từ định lý Friedlander–Iwaniec được.

Tham khảo

Bản mẫu:Tham khảo

Đọc thêm