Giới hạn Bekenstein
Trong vật lý, giới hạn Bekenstein (đặt tên theo Jacob Bekenstein) là một chặn trên cho entropy Bản mẫu:Mvar, hay thông tin Bản mẫu:Mvar, có thể được chứa trong một vùng không gian hữu hạn với một lượng năng lượng hữu hạn – hay ngược lại, lượng thông tin lớn nhất cần dùng để mô tả hoàn toàn một hệ vật tới tận mức độ lượng tử.[1] Từ đó có thể suy ra rằng lượng thông tin của một hệ vật, hay lượng thông tin cần để mô tả hệ vật đó hoàn hảo, là hữu hạn nếu vùng không gian và năng lượng là hữu hạn. Trong khoa học máy tính, điều này dẫn đến có một mức xử lý thông tin tối đa (giới hạn Bremermann) cho một hệ vật với kích thước và năng lượng hữu hạn, và một chiếc máy Turing với hữu hạn chiều vật lý và bộ nhớ vô hạn là không thể tồn tại.
Công thức
Dạng bất đẳng thức thường thấy của giới hạn này được Jacob Bekenstein tìm ra là[1][2][3]
trong đó Bản mẫu:Mvar là entropy, Bản mẫu:Mvar là hằng số Boltzmann, Bản mẫu:Mvar là bán kính của mặt cầu bao quanh hệ đã cho, Bản mẫu:Mvar là khối lượng–năng lượng tổng cộng tính cả khối lượng nghỉ, Bản mẫu:Mvar là hằng số Planck thu gọn, và Bản mẫu:Mvar là tốc độ ánh sáng. Để ý rằng tuy trọng lực đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên giới hạn, nhưng hằng số hấp dẫn Bản mẫu:Mvar không có trong bất đẳng thức này.
Nếu biểu diễn bằng thông tin, với Bản mẫu:Math, giới hạn này được tính bằng
trong đó Bản mẫu:Mvar là lượng thông tin biểu diễn bằng số bit chứa trong trạng thái lượng tử của quả cầu. Hệ số ln 2 là do thông tin được định nghĩa là logarit cơ số 2 của số trạng thái lượng tử.[4] Sử dụng sự tương đương khối lượng–năng lượng, giới hạn thông tin trên có thể viết lại thành
trong đó Bản mẫu:Mvar là khối lượng, còn Bản mẫu:Mvar là bán kính của hệ.
Nguồn gốc
Bekenstein tìm được chặn trên này từ suy luận heuristic liên quan đến lỗ đen. Nếu một hệ tồn tại và vi phạm giới hạn này, tức có quá nhiều entropy, Bekenstein chỉ ra rằng có thể vi phạm định luật hai của nhiệt động lực học bằng cách cho nó vào trong một lỗ đen. Năm 1995, nhà vật lý Ted Jacobson chỉ ra rằng phương trình trường Einstein (tức thuyết tương đối rộng) có thể được suy ra bằng cách giả sử giới hạn Bekenstein và các định luật nhiệt động lực học là đúng.[5][6] Tuy một số lập luận đã được đưa ra rằng một giới hạn như thế phải tồn tại để các định luật nhiệt động lực học và thuyết tương đối rộng đều phù hợp, phát biểu giới hạn chính xác vẫn là vấn đề gây tranh cãi cho đến khi Casini giải quyết nó năm 2008.[2][3][7][8][9][10][11][12][13][14][15]
Chứng minh bằng lý thuyết trường lượng tử
Một chứng minh của giới hạn Bekenstein trong khuôn khổ của lý thuyết trường lượng tử được đưa ra năm 2008 bởi Horacio Casini.[16] Một trong những sáng kiến quan trọng của chứng minh này là tìm được biểu diễn phù hợp cho các đại lượng ở hai bên bất đẳng thức.
Định nghĩa thông thường của entropy và mật độ năng lượng trong lý thuyết trường lượng tử gặp vấn đề phân kỳ tử ngoại. Trong trường hợp của giới hạn Bekenstein, phân kỳ tử ngoại có thể được giải quyết bằng cách lấy hiệu giữa đại lượng tính được trong trạng thái kích thích và trong trạng thái chân không. Ví dụ, với một vùng không gian Bản mẫu:Mvar, Casini định nghĩa entropy ở vế trái của giới hạn Bekenstein là
trong đó Bản mẫu:Math là entropy von Neumann của ma trận mật độ thu gọn Bản mẫu:Math của Bản mẫu:Mvar trong trạng thái kích thích Bản mẫu:Mvar, và Bản mẫu:Math là entropy Von Newmann cho trạng thái chân không Bản mẫu:Math.
Ở vế phải của giới hạn Bekenstein, một phần khó là lý luận chặt chẽ cho đại lượng Bản mẫu:Math, trong đó Bản mẫu:Mvar là độ dài đặc trưng của hệ và Bản mẫu:Mvar là năng lượgn đặc trưng. Tích này có cùng đơn vị với tập sinh của phép gia tăng Lorentz, và một khái niệm tương tự với gia tăng trong trường hợp này là Hamiltonian môđun của trạng thái chân không Bản mẫu:Math. Casini định nghĩa vế phải của giới hạn Bekenstein là hiệu giữa giá trị kỳ vọng của Hamiltonian môđun trong trạng thái kích thích và trong trạng thái chân không,
Với những định nghĩa này, giới hạn trở thành
và có thể được biến đổi thành
Đây là phát biểu rằng entropy tương đối luôn dương, chứng minh giới hạn Bekenstein.
Ví dụ
Lỗ đen
Entropy rìa Bekenstein–Hawking của lỗ đen ba chiều bằng đúng giá trị giới hạn
trong đó Bản mẫu:Mvar là hằng số Boltzmann, Bản mẫu:Mvar là diện tích hai chiều của chân trời sự kiện của lỗ đen tính bằng đơn vị diện tích Planck, .
Giới hạn này liên quan mật thiết đến nhiệt động lực học lỗ đen, nguyên lý toàn ảnh, và giới hạn toàn ảnh Bousso của hấp dẫn lượng tử, và có thể được suy ra từ dạng mạnh hơn của giới hạn Bousso.
Não người
Não người trung bình nặng khoảng 1.5 kg và có thể tích là 1260 cmBản mẫu:Sup. Nếu ta xấp xỉ bộ não bằng một hình cầu, thì bán kính của nó sẽ vào khoảng Bản mẫu:Nowrap
Giới hạn thông tin Bekenstein khi ấy sẽ vào khoảng 2.6Bản mẫu:E bit, lượng thông tin tối đa cần dùng để mô phỏng hoàn hảo bộ não con người xuống mức dộ lượng tử. Điều này nghĩa là số trạng thái lượng tử Bản mẫu:Math của não người không vượt quá .
Xem thêm
- Định lý Margolus–Levitin
- Nguyên lý Landauer
- Độ phức tạp Kolmogorov
- Nhiệt động lực học hố đen
- Bộ não Boltzmann
- Vật lý kỹ thuật số
- Giới hạn Chandrasekhar
Tham khảo
Liên kết ngoài
- Jacob D. Bekenstein, "Bekenstein bound", Scholarpedia, Vol. 3, No. 10 (2008), p. 7374, Bản mẫu:Doi.
- Jacob D. Bekenstein, "Bekenstein-Hawking entropy", Scholarpedia, Vol. 3, No. 10 (2008), p. 7375, Bản mẫu:Doi.
- Website của Jacob D. Bekenstein tại Viện Vật lý Racah, Hebrew University of Jerusalem, chứa một số bài viết về giới hạn Bekenstein.
- Bản mẫu:Chú thích web
- ↑ 1,0 1,1 Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ 2,0 2,1 Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ 3,0 3,1 Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ Lee Smolin, Three Roads to Quantum Gravity (New York, N.Y.: Basic Books, 2002), pp. 173 and 175, Bản mẫu:ISBN, Bản mẫu:LCCN.
- ↑ Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ Jacob D. Bekenstein, "Information in the Holographic Universe: Theoretical results about black holes suggest that the universe could be like a gigantic hologram", Scientific American, Vol. 289, No. 2 (August 2003), pp. 58-65..
- ↑ Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ Bản mẫu:Chú thích tạp chí
- ↑ Bản mẫu:Chú thích tạp chí. Tipler gives a number of arguments for maintaining that Bekenstein's original formulation of the bound is the correct form. See in particular the paragraph beginning with "A few points..." on p. 903 of the Rep. Prog. Phys. paper (or p. 9 of the arXiv version), and the discussions on the Bekenstein bound that follow throughout the paper.
- ↑ Bản mẫu:Chú thích tạp chí